• Skip to primary navigation
  • Skip to main content
  • Skip to primary sidebar

Hỗ trợ học trực tuyến E-Learning

  • Home
  • EHOU
  • NEU
  • TVU
  • TNU
  • FTU
  • Show Search
Hide Search

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh

admin · April 2, 2025 · Leave a Comment

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh theo Pháp luật cạnh tranh

I. Đặt vấn đề

Cạnh tranh là một trong các quy luật tất yếu trong nền kinh tế. Cạnh tranh là sự ganh đua của các chủ thể kinh doanh với nhau nhằm mang lại những lợi thế kinh doanh trên thị trường, thu được lợi nhuận cho mình. Qua đó, cạnh tranh mang trong mình là động lực phát triển cho nền kinh tế.

Nhằm đáp ứng các nhu cầu về lợi nhuận cao, chi phí bỏ ra thấp nên một số chủ thể đã có những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Những hành vi này đã làm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của một số chủ thể khác. Pháp luật Việt Nam đã có quy định về những hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm tại chương VI Luật cạnh tranh 2018.

II. Nội dung

1. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Theo khoản 6 Điều 3 Luật cạnh tranh 2018 (LCT) thì hành vi cạnh tranh không lành mạnh được hiểu là những hành vi trái với các nguyên tắc về thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh của doanh nghiệp mà những hành vi đó gây thiệt hại hoặc có thể sẽ gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của doanh nghiệp khác.

Chủ thể thực hiện hành vi là các doanh nghiệp. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2020 (LDN) thì doanh nghiệp là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật. Khác với quy định của LDN thì LCT quy định doanh nghiệp ở đây không chỉ giới hạn là tổ chức mà là các cá nhân kinh doanh, doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.

Mục đích là nhằm cạnh tranh trong kinh doanh, tức các doanh nghiệp sẽ cùng cạnh tranh với nhau trong cùng thị trường mua hoặc bán sản phẩm và cạnh tranh mang lại nhiều lợi thế nhất định trên thị trường cho mình so với các doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp khác ở đây là những doanh nghiệp cạnh tranh trực tiếp hoặc là doanh nghiệp có tiềm năng cạnh tranh với doanh nghiệp thực hiện hành vi cạnh tranh.

Tính chất của hành vi cạnh tranh là không lành mạnh. “Không lành mạnh” được thể hiện qua việc trái với với các nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh. Không trái với thiện chí, trung thực là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động kinh doanh, thể hiện qua việc không đưa thông tin gian dối, không đưa ra các thông tin gây nhầm lẫn… Không trái với các chuẩn mực khác trong kinh doanh, tức phải đảm bảo những điều kiện, tiêu chuẩn riêng của từng ngành nghề trong kinh doanh.

Hậu quả của hành vi là gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác. Được xem là “có thể gây thiệt hại” khi nguy cơ gây thiệt hại chắc chắn xảy ra trên thực tế nếu không có sự can thiệp kịp thời của cơ quan chức năng. Tức phải chứng minh được nếu cơ quan chức năng không ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm thì thiệt hại chắc chắn sẽ xảy ra trên thực tế. Đối tượng tác động có thể là doanh nghiệp cạnh tranh hoặc doanh nghiệp không cạnh tranh với doanh nghiệp thực hiện hành vi. Có thể hiểu, doanh nghiệp không cạnh tranh là các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ, hàng hoá… trực tiếp cho doanh nghiệp cạnh tranh. Doanh nghiệp không cạnh tranh phải chứng minh được rằng mình bị thiệt hại, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của mình do hành vi vi phạm gián tiếp gây ra.

2. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh

(1) Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh

LCT không định nghĩa hành vi xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh. Theo Luật sở hữu trí tuệ, bí mật trong kinh doanh là các thông tin mà chủ thể thu được các thông tin từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Như vậy, thông tin bí mật trong kinh doanh là tất cả những thông tin mà doanh nghiệp khác có được từ hoạt động kinh doanh của họ và được doanh nghiệp đó bảo mật bằng cách áp dụng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị lộ và không thể tiếp cận được.

Khoản 1 Điều 45 LCT đã liệt kê hai hành vi xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh: xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh là hành vi mà các doanh nghiệp tiếp cận, thu thập các thông tin bí mật kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng cách chống lại biện pháp bảo mật của người sở hữu thông tin đó; Hoặc tiết lộ, sử dụng chúng trong kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó.

Ví dụ, vụ tranh chấp giữa Tony Mason và Jack Daniel Distillery. Tony Mason đã sáng tạo ra Lynchburg Lemonade và Winston Randle nhiều lần uống Lynchburg Lemonade nên đã tìm hiểu được công thức pha chế ra nó và đưa thông tin Jack Daniel. Sau đó, Jack Daniel đã phát triển loại đồ uống này. Mason đã kiện Daniel và Randle về sử dụng bí mật kinh doanh mà không được phép và Mason không nhận được bất kỳ khoản tiền đền bù nào đối với việc sử dụng Lynchburg Lemonade từ phía bên kia. Thẩm phán ở hai cấp tòa án sơ thẩm và phúc thẩm của Mỹ đã áp dụng các đạo luật chống cạnh tranh không lành mạnh về bí mật kinh doanh cùng với các quan điểm về sự biển thủ bí mật kinh doanh để xử vụ kiện này. Kết quả là Lynchburg Lemonade của Tony Mason đã được toà án kết luận là bí mật kinh doanh và Mason đã giành được khoản tiền bồi thường khá lớn trong vụ kiện này.

(2) Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác

Hành vi ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác được thể hiện qua hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó.

Hành vi ép buộc có thể xác định theo Bộ luật dân sự 2015 tại Điều 127 – là những hành vi cố ý của một bên hoặc của bên thứ ba thể hiện tính bạo lực tác động lên ý chí của khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác nhằm để khách hàng sẽ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp khác. Hành vi vi phạm được hoàn thành khi thể hiện được mục đích khách hàng hoặc đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác không giao dịch hoặc ngừng giao dịch mà không bắt buộc hậu quả phải xảy ra.

Đối tượng là các khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác. Khách hàng, đối tác kinh doanh có thể là các cá nhân, tổ chức đang giao dịch hoặc trong tương lai sẽ giao dịch của doanh nghiệp khác mà không phải của chính doanh nghiệp thực hiện hành vi.

(3) Cung cấp thông tin không trung thực

Việc cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác được xét theo hai khía cạnh: (1) Doanh nghiệp trực tiếp đưa ra những thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác thông qua các cách thức khác nhau lên thị trường; (2) Doanh nghiệp nhờ bên thứ ba đưa ra những thông tin không đúng sự thật. Thông tin có thể về chất lượng sản phẩm, tình hình tài chính… và hoàn thành hành vi vi phạm khi thông tin được đưa ra sai so với thực tế, trường hợp thông tin được đưa ra đúng thì không cấu thành hành vi vi phạm. Hai khía cạnh này đều dẫn đến hậu quả là ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị đưa thông tin không trung thực.

Ví dụ: Năm 2003, vụ việc của Ngân hàng Cổ phần thương mại Á Châu (viết tắt là ACB), khi có tin đồn giám đốc ACB bỏ trốn, sau đó lại trở thành giám đốc ACB đã bị bắt. Vụ việc này đã làm cho dư luận xôn xao và ồ ạt đến ACB để rút tiền. Trong khoảng thời gian ngắn, hơn 900 tỷ đồng bị rút ra dẫn đến việc ACB đứng trước khả năng không đủ tiền mặt để chi trả cho khách hàng. Hành vi tung tin đồn không đúng sự thật đã xâm hại nghiêm trọng đến uy tín của ACB.

(4) Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác

Hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác cũng được thể hiện dưới hai khía cạnh giống hành vi cung cấp thông tin không trung thực: (1) Doanh nghiệp trực tiếp thực hiện các hành vi cản trở hoặc làm gián đoạn hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp khác; (2) Doanh nghiệp gián tiếp thông qua một bên thứ ba sử dụng các biện pháp để cản trở hoặc làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác. Các hành vi này không là các hành vi cung cấp thông tin không trung thực, ép buộc khách hàng hoặc đối tác kinh doanh.

Đối tượng bị tác động là hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp bị thực hiện hành vi. Hành vi vi phạm này có thể cản trở một giai đoạn, nhiều giai đoạn hoặc toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Về mặt chủ thể thực hiện hành vi vì sẽ ảnh hưởng đến pháp luật giải quyết khi có tranh chấp. Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm phải có cạnh tranh với chủ thể bị vi phạm. Ví dụ: A là chủ của xưởng sản xuất nước mắm thực hiện hiện các hành vi ảnh hưởng đến B là chủ xưởng may nhưng giữa A và B không có sự cạnh tranh giữa hai chủ thể này nên khi giải quyết sẽ không áp dụng theo pháp luật cạnh tranh.

(5) Lôi kéo khách hàng bất chính

Hành vi lôi kéo khách hàng bất chính được LCT quy định dưới hai hình thức:

Doanh nghiệp đưa các thông tin không đúng sự thật hoặc thông tin gây ra nhầm lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp của mình hoặc hàng hoá, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp mình cung cấp nhằm thu hút khách hàng của doanh nghiệp khác.

Hành vi đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng có thể được thể hiện như: Thông tin về doanh nghiệp (uy tín, năng lực của doanh nghiệp…); Thông tin về hàng hóa sản phẩm (đưa thông tin không đúng về chủng loại hàng hoá…); Thông tin về điều kiện giao dịch… Đây là những thông tin tác động đến sự lựa chọn của khách hàng, của đối tác kinh doanh.

Hành vi mà doanh nghiệp vi phạm đưa thông tin về hàng hoá, dịch vụ của mình so sánh với hàng hoá, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác nhưng không chứng minh được nội dung mà mình hướng đến. Hàng hoá, dịch vụ cùng loại có thể được hiểu dựa trên tính thay thế cho nhau của sản phẩm, cùng công dụng, cùng đặc tính…

Tính chất của các thông tin mà doanh nghiệp tung ra mang tính gây rối, gây nhầm lẫn cho khách hàng, gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác. Và mục đích của hành vi này là hướng đến lôi kéo khách hàng của doanh nghiệp khác trong cùng ngành nghề kinh doanh để khách hàng về giao dịch với doanh nghiệp mình.

(6) Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ

LCT cấm hành vi doanh nghiệp bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ với mục đích loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó. Dưới giá thành toàn bộ phải xác định được hai yếu tố: Giá bán hàng hoá thực tế của doanh nghiệp (1) và giá thành toàn bộ (2) – được xác định theo quy định của pháp luật về giá. Nếu (1) – (2) > 0 thì đây không là hành vi vi phạm ; Nếu (2) – (1) < 0 thì đây là hành vi vi phạm. Tức được xác định là dưới giá thành toàn bộ trong trường hợp giá bán hàng hoá thực tế của doanh nghiệp nhỏ hơn giá thành toàn bộ.

Đối với hành vi này sẽ dẫn đến hậu quả dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác nếu hành vi đó không được chấm dứt, không được ngăn chặn kịp thời.

III. Tổng kết

Hiện nay, các chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh sử dụng những hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhằm hướng đến những lợi ích riêng cho bản thân. Ở đâu có cạnh tranh, ở đó có cạnh tranh không lành mạnh. Vì vậy Nhà nước đã quy định các hành vi là cạnh tranh không lành mạnh và đưa ra biện pháp xử lý. Nhưng biện pháp xử lý hiện nay chỉ dừng lại ở xử phạt hành chính. Trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp sẽ “chịu hy sinh” bị xử phạt hành chính nhưng có thể sẽ thu lại lợi nhuận rất cao từ hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Vì vậy, cần phải có biện pháp mạnh hơn trong việc xử lý các chủ thể khi có hành vi vi phạm.

Share this:

  • Facebook
  • X
  • Print
  • Email

Related

Filed Under: Uncategorized Tagged With: Pháp luật cạnh tranh

Reader Interactions

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Primary Sidebar

Tags

Kinh tế lượng Kinh tế Vi mô Kinh tế vĩ mô Luật dân sự Luật Dân sự Việt Nam Luật Dân sự Việt Nam 1 Luật Dân sự Việt Nam 2 Luật Hành chính Việt Nam Luật hình sự việt nam Luật lao động Luật Môi trường Luật Tố tụng hành chính Việt Nam Luật Tố tụng hình sự Việt Nam Lý luận Nhà nước và Pháp luật Lý thuyết Tài chính Tiền tệ Lịch sử các học thuyết kinh tế Nguyên lý kế toán Nhập môn Internet và E-learning Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin Pháp luật về chủ thể kinh doanh Pháp luật về Sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ Pháp luật Đại cương Phát triển kỹ năng cá nhân Phát triển kỹ năng cá nhân 1 Phát triển kỹ năng cá nhân 2 Phân tích báo cáo tài chính Phương pháp luận nghiên cứu khoa học Quản trị dự án đầu tư Quản trị kinh doanh Soạn thảo văn bản Soạn thảo văn bản hành chính Thương mại điện tử Tin học đại cương Tiếng Anh 2 Tiếng Anh cơ bản 1 Trò chơi kinh doanh Tài chính doanh nghiệp Tâm lý học đại cương Tâm lý kinh doanh Tư tưởng Hồ Chí Minh Tổ chức thông tin kế toán Xây dựng văn bản pháp luật Xã hội học Pháp luật Đường lối cách mạng của ĐCSVN Đại số tuyến tính

Categories

  • BAV
  • EHOU
  • FTU
  • NEU
  • TNU
  • TVU
  • Uncategorized
  • VLU

Copyright © 2025 · Cap3 Confessions