• Skip to primary navigation
  • Skip to main content
  • Skip to primary sidebar

Hỗ trợ học trực tuyến E-Learning

  • Home
  • EHOU
  • NEU
  • TVU
  • TNU
  • FTU
  • Show Search
Hide Search

Kiện đòi hoàn trả tài sản bị người khác chiếm giữ không có căn cứ pháp luật

admin · March 27, 2025 · Leave a Comment

Kiện đòi hoàn trả tài sản bị người khác chiếm giữ không có căn cứ pháp luật theo quy định của bộ Luật dân sự năm 2015.

Tóm tắt

BLDS 2015 đã thay đổi những khiếm khuyết của Bộ luật cũ và đến nay thì những quy định này đã tương đối đầy đủ về kiện đòi hoàn trả tài sản bị người khác chiếm giữ không có căn cứ pháp luật. Bài viết này nhằm giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về kiện đòi hoàn trả tài sản bị người khác chiếm giữ không có căn cứ pháp luật theo quy định của bộ luật dân sự năm 2015 cũng như nêu ra những thực trạng quy định hiện hành và kiến nghị để hoàn thiện hơn về mặt lập pháp.

Đặt vấn đề

Quyền sở hữu luôn được Nhà nước quan tâm và bảo vệ một cách tuyệt đối thông qua nhiều phương pháp khác nhau, trong đó thì biện pháp dân sự là phổ biến, đa dạng và điều chỉnh rộng nhất. Một trong những biện pháp dân sự để bảo vệ quyền sở hữu là kiện đòi hoàn trả tài sản. Tuy nhiên đây là chế định tương đối phức tạp và cần phải được hiểu thật kỹ để tránh áp dụng sai.

Nội dung bài viết

Khái niệm

Theo Điều 105 BLDS 2015, tài sản không được định nghĩa mà được quy định theo phương pháp liệt kê bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản này có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. “Kiện” theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học được hiểu là: “yêu cầu xét xử việc người khác đã làm thiệt hại đến mình” còn “đòi là: “nói cho người khác biết phải trả hoặc trả lại cái thuộc quyền của mình”. Như vậy, có thể hiểu “Kiện đòi hoàn trả tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu Toà án xét xử buộc người đang chiếm hữu không có căn cứ pháp luật đối với tài sản của mình phải trả lại tài sản đó cho mình”.

Bên cạnh đó, theo khoản 2 Điều 165 người đang chiếm hữu không có căn cứ pháp luật được pháp luật quy định bao gồm những trường hợp không phải là chiếm hữu có căn cứ theo khoản 1 Điều này.

Người có quyền yêu cầu

Từ khái niệm đã phân tích ở mục 2.1 ta thấy rằng, kiện đòi hoàn trả tài sản có thể đến từ chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp đối với người đang chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Ví dụ: sinh viên trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh gửi xe máy tại bãi xe cạnh trường thông qua hợp đồng gửi giữ tài sản; trong quá trình gửi giữ, có người đã lẻn vào và lấy chiếc xe ấy đi ngoài ý chí của người giữ xe, như vậy lúc này chủ thể có thể kiện đòi hoàn trả tài sản có thể là chủ sở hữu chiếc xe máy hoặc người trông giữ xe – người chiếm hữu hợp pháp thông qua hợp đồng gửi giữ tài sản.

Điều kiện để nguyên đơn được kiện đòi hoàn trả tài sản

Không phải lúc nào chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp cũng được kiện đòi tài sản mà phải thỏa mãn cùng lúc cả ba điều kiện: (i) Nếu tài sản là vật thì vật đó phải là vật đặc định và đang tồn tại, lý do cho điều kiện này xuất phát từ đặc thù của việc kiện đòi hoàn trả tài sản là tài sản đó phải đang bị chiếm hữu không có căn cứ pháp luật, do đó để vật đang bị chiếm hữu thì vật đó phải đang tồn tại, bên cạnh đó nếu vật đó là vật cùng loại thì người chủ sở hữu không nhất thiết phải đòi lại đúng tài sản bị chiếm hữu mà có thể đòi lại tài sản khác cùng loại ví dụ A mua 2 lít xăng RON 95 của cây xăng B hẹn 1 lát quay lại lấy, lúc này người đổ xăng lấy số xăng đó đổ cho người khác, trường hợp này người này có thể lấy 2 lít xăng RON95 khác đổ cho A bởi lẽ xăng là vật cùng loại có cùng chất lượng, tính năng sử dụng, … tuy nhiên đối với vật đặc định theo khoản 2 Điều 113 đây là vật phân biệt được với các vật khác và khi đưa vật đặc định thì phải đưa đúng vật đó; (ii) Nguyên đơn phải là chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp; (iii) Bị đơn là người đang thực tế chiếm hữu vật nhưng việc chiếm hữu là bất hợp pháp theo khoản 1 Điều 166 BLDS 2015, tài sản yêu cầu hoàn trả phải là tài sản chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật.

Trường hợp yêu cầu đòi lại tài sản của chủ sở hữu không được đáp ứng

Kiện đòi tài sản ngoài việc phải đáp ứng các điều kiện đã nêu trên thì pháp luật Việt Nam còn yêu cầu việc kiện đòi tài sản này không được rơi vào một số trường hợp nhất định cụ thể:

Trường hợp tài sản bị chiếm hữu là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu

Trường hợp yêu cầu đòi lại tài sản của chủ sở hữu không được đáp ứng khi thỏa mãn tất cả các điều kiện sau: (i) Việc chiếm hữu đó là ngay tình; (ii) Vật là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu; (iii) Thông qua hợp đồng có đền bù; (iv) Rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí của chủ sở hữu. Để hiểu rõ hơn cho trường hợp này, tác giả xin đưa ra ví dụ minh họa như sau: A cho B mượn 1 cái quạt sau đó B đem nó bán cho C (C không quen biết A), như vậy trong ví dụ này tài sản là quạt rời khỏi A theo ý chí của người này, quạt là động sản theo khoản 2 Điều 107 BLDS 2015 và không phải đăng ký, B đem bán cho C và nhận lại một số tiền do đó nó thỏa tính chất là một hợp đồng có đền bù, việc chiếm hữu này của C là ngay tình bởi lẽ C không biết và cũng không thể biết đây là quạt của A cho B mượn.

Trường hợp tài sản bị chiếm hữu là động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản

Về cơ bản, người chiếm hữu tài sản trong trường hợp này rất khó để được cho là ngay tình bởi lẽ đây là tài sản đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sở hữu cho chủ sở hữu. Tuy nhiên, đây lại là tài sản xảy ra tranh chấp đòi tài sản nhiều và phức tạp hơn so với động sản không phải đăng ký. Mặc dù về nguyên tắc người chiếm giữ tài sản trong trường hợp này không có căn cứ phải hoàn trả lại cho người chủ sở hữu nhưng theo pháp luật Việt Nam và trên thực tế vẫn tồn tại những trường hợp ngoại lệ, cụ thể theo quy định tại Điều 168 và khoản 2 Điều 133 BLDS 2015 thì “Trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa thì giao dịch của người thứ ba ngay tình vẫn có hiệu lực pháp luật”. Bởi vì, văn bản mua tài sản đấu giá, bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là là căn cứ để người mua xác lập quyền sở hữu hợp pháp. Do vậy khi người thứ ba giao dịch với những người này thì họ không thể biết và không có nghĩa vụ biết rằng tài sản đang giao dịch thực chất là của người khác. Do đó trường hợp này tài sản không thể bị đòi lại do pháp luật ưu tiên bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba ngay tình.

Tuy nhiên, đối với các trường hợp nói trên, chủ sở hữu ban đầu tuy không thể đòi lại tài sản đã mất nhưng có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại từ bên có lỗi theo khoản 3 Điều 133 BLDS 2015.

Thực trạng quy định, kiến nghị

Có thể nói BLDS 2015 đã khắc phục được một số nhược điểm của BLDS 2005, điển hình đó là về quy định người có quyền yêu cầu hoàn trả tài sản, cụ thể tại Điều 166 BLDS 2015 đã bỏ đi cụm từ “Trong trường hợp tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của người chiếm hữu ngay tình thì áp dụng Điều …”, đây là quy định tiến bộ hơn so với BLDS 2005 khi đã áp dụng đồng nhất hai chủ thể được quyền yêu cầu đòi lại tài sản thay vì có trường hợp ngoại lề chỉ có chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình. Bên cạnh đó pháp luật Việt Nam đã ban hành Luật đấu giá tài sản 2016 khắc phục nhiều vấn đề về đấu giá trong đó có vấn đề về quản lý tài sản đấn giá liên quan đến kiện đòi tài sản thay vì chỉ có văn bản hướng dẫn như Nghị định. Tuy nhiên bên cạnh những điểm tích cực, thì BLDS 2015 vẫn chưa quy định thế nào là hợp đồng có đền bù theo quy định tại Điều 167 do đó có thể dẫn đến những cách hiểu khác nhau rằng như thế nào là đền bù và không đền bù.

Kết luận

Kiện đòi hoàn trả tài sản bị người khác chiếm giữ không có căn cứ pháp luật không còn quá xa lạ trong thực tế, đặc biệt, khi xã hội càng phát triển, giá trị vật chất càng cao thì cũng là lúc nhiều người phát sinh lòng tham. Đặc biệt, hành vi chiếm giữ tài sản không có căn cứ pháp luật này còn có thể là hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu người chiếm giữ tài sản bị buộc phải hoàn trả mà không hoàn trả thì có thể bị truy cứu Tội chiếm giữ tài sản theo Điều 176. Bộ luật Dân sự hiện nay đã có quy định khá chặt chẽ cho chế định này tuy nhiên vẫn còn một vài thiếu sót. Nhóm tác giả kiến nghị cần có quy định riêng cụ thể cho việc giải thích thế nào là hợp đồng đền bù.

Share this:

  • Facebook
  • X
  • Print
  • Email

Related

Filed Under: Uncategorized Tagged With: Luật dân sự

Reader Interactions

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Primary Sidebar

Tags

Kinh tế lượng Kinh tế Vi mô Kinh tế vĩ mô Luật dân sự Luật Dân sự Việt Nam Luật Dân sự Việt Nam 1 Luật Dân sự Việt Nam 2 Luật Hành chính Việt Nam Luật hình sự việt nam Luật lao động Luật Môi trường Luật Tố tụng hành chính Việt Nam Luật Tố tụng hình sự Việt Nam Lý luận Nhà nước và Pháp luật Lý thuyết Tài chính Tiền tệ Lịch sử các học thuyết kinh tế Nguyên lý kế toán Nhập môn Internet và E-learning Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin Pháp luật về chủ thể kinh doanh Pháp luật về Sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ Pháp luật Đại cương Phát triển kỹ năng cá nhân Phát triển kỹ năng cá nhân 1 Phát triển kỹ năng cá nhân 2 Phân tích báo cáo tài chính Phương pháp luận nghiên cứu khoa học Quản trị dự án đầu tư Quản trị kinh doanh Soạn thảo văn bản Soạn thảo văn bản hành chính Thương mại điện tử Tin học đại cương Tiếng Anh 2 Tiếng Anh cơ bản 1 Trò chơi kinh doanh Tài chính doanh nghiệp Tâm lý học đại cương Tâm lý kinh doanh Tư tưởng Hồ Chí Minh Tổ chức thông tin kế toán Xây dựng văn bản pháp luật Xã hội học Pháp luật Đường lối cách mạng của ĐCSVN Đại số tuyến tính

Categories

  • BAV
  • EHOU
  • FTU
  • NEU
  • TNU
  • TVU
  • Uncategorized
  • VLU

Copyright © 2025 · Cap3 Confessions