Nguyên tắc tòa án không được từ chối giải quyết các vụ việc dân sự với lý do chưa có điều luật áp dụng trong bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.
TÓM TẮT: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định tại Chương II các quyền về con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Theo đó, trừ một số trường hợp đặc biệt, công dân tại nước Việt Nam có quyền được tôn trọng, bình đẳng về mọi mặt trong cuộc sống xã hội (Quyền được bầu cử; Quyền được tự do ngôn luận; Quyền tự do kinh doanh các ngành nghề mà pháp luật không cấm…) Mọi cá nhân, tổ chức nếu có hành vi không tôn trọng, cố ý không thực hiện đúng những điều mà pháp luật, Nhà nước quy định đều phải chịu những chế tài khác nhau theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Tuy nhiên, với nhịp sống đang dần phát triển của xã hội hiện nay, những quy định của pháp luật không thể bao quát và dự liệu hết quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống hằng ngày. Khi một tranh chấp xảy ra, nếu các bên có thỏa thuận với nhau thì Tòa án ưu tiên áp dụng thỏa thuận của các bên và không được vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Thế nhưng, nếu các bên không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì Tòa án có thể áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 hoặc Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để giải quyết, ví dụ như áp dụng tập quán; áp dụng tương tự pháp luật; sử dụng án lệ, lẽ công bằng… Chính vì lý do đó, để bảo vệ quyền và lợi ích cơ bản của công dân hoặc bảo vệ quyền dân sự thông qua các cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp này, nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết các vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng đã được quy định và ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
I. Đặt vấn đề:
Mặc dù các quy định của pháp luật Dân sự đã quy định khá cụ thể và chi tiết những trường hợp có thể phát sinh khi các bên tham gia một quan hệ Dân sự trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, xã hội ngày càng phát triển, các quan hệ xã hội trong cuộc sống hằng ngày đã bị biến hóa nên không thể tránh khỏi trường hợp sẽ có những tranh chấp hoặc quan hệ xã hội phát sinh nhưng pháp luật lại chưa có đường lối và phương hướng giải quyết, gây lúng túng cho cơ quan có thẩm quyền xét xử và các đương sự khi thực hiện, tham gia vào quá trình tố tụng. Để giải quyết một cách triệt để những trường hợp này, tại khoản 2 Điều 4 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự với lý do chưa có điều luật để áp dụng và cách áp dụng cụ thể được quy định tại Điều 45 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, như thế nào để được xem là một vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng? Nếu rơi vào trường hợp nêu trên thì cách giải quyết của Toà án được thực hiện như thế nào để có thể bảo đảm quyền và lợi ích của đương sự trong quá trình thực hiện quy trình tố tụng?
II. Nội dung bài viết:
2.1 Quy định về “vụ việc chưa có điều luật để áp dụng” trong pháp luật Việt Nam.
Trong Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 tại khoản 2 Điều 4 đã quy định cụ thể và chi tiết về khái niệm “vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng” đó là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật Dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh, cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng. Việc giải quyết vụ việc dân sự quy định tại khoản này được thực hiện theo các nguyên tắc do Bộ luật dân sự và Bộ luật này quy định. Như vậy, nếu một vụ việc dân sự được coi là chưa có điều luật để áp dụng nhưng các đương sự đã thực hiện việc nộp đơn khởi kiện lên Tòa án, thì theo khoản 2 Điều 4 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì Tòa án không được phép từ chối mà vẫn phải thụ lý các vụ việc Dân sự chưa có điều luật để áp dụng ấy, một phần là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, phần còn lại là để cho Tòa án thực hiện đúng nhiệm vụ xét xử, là một “cán cân công lý” để giải quyết các tranh chấp xảy ra trong đời sống hằng ngày giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức bất kỳ… Việc xét xử những vụ việc dân sự được coi là chưa có điều luật để áp dụng này sẽ được thực hiện theo Điều 45 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 theo thứ tự: áp dụng tập quán; áp dụng tương tự pháp luật và áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng.
2.2 Trình tự thực hiện việc áp dụng pháp luật theo nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng:
2.2.1 Áp dụng tập quán
Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự. Theo khoản 1 Điều 45 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 việc áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định. Tập quán không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật Dân sự năm 2015 (mọi cá nhân đều bình đẳng, tôn trọng; cá nhân phải thện chí xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết…). Tiếp theo, trong Bộ luật Tố tụng Dân sự Việt Nam còn ghi nhận một điều tiến bộ và phát triển đó là khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền viễn dẫn tập quán để yêu cầu Tòa án xem xét, áp dụng và Tòa án có trách nhiệm xác định giá trị áp dụng của tập quán. Có thể hiểu rằng, trong một vụ việc dân sự không có điều luật để áp dụng, nếu các bên không có thỏa thuận thì Tòa án được quyền áp dụng tập quán, nhưng tuy nhiên pháp luật tố tụng vẫn cho phép các đương sự có quyền viện dẫn tập quán mà mìn đã sử dụng từ trước đến nay là một cơ sở để Tòa án xem xét, áp dụng. Điều này sẽ bảo vệ được quyền lợi cho các bên trong quá trình tham gia tố tụng, đồng thời cũng rút ngắn cho cơ quan có thẩm quyền xét xử trong việc giải quyết các vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng.
2.2.2 Áp dụng tương tự pháp luật
Khi một quan hệ dân sự chưa có điều luật để áp dụng phát sinh, Tòa án thực hiện việc áp dụng tương tự pháp luật trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp không quy định và không có tập quán áp dụng . Trên thực tế, có rất nhiều cách hiểu, định nghĩa về thuật ngữ “tương tự pháp luật”, nhưng tất cả đều viện dẫn về cách hiểu, “tương tự pháp luật” là việc dùng những quy phạm pháp luật đang có hiệu lực thi hành đối với những quan hệ tương tự như quan hệ cần xử lý để điều chỉnh quan hệ cần xử lý đó, trong điều kiện không có quy phạm trực tiếp điều chỉnh. Khi áp dụng tương tự pháp luật, Tòa án phải xác định rõ tính chất pháp lý của vụ việc dân sự, xác định rõ ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành không có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ đó và xác định quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự. Không khó để có thể thấy việc Tòa án thực hiện việc áp dụng tương tự pháp luật trong các vụ việc dân sự hiện nay bởi vì bản thân tập quán cũng không thể điều chỉnh để giải quyết các vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng, nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp đối với các bên tham gia, cơ quan có thẩm quyền xét xử có trách nhiệm phải kiểm tra, suy xét kỹ tính chất pháp lý của các vụ việc dân sự để giải quyết chúng, tránh gây hậu quả về sau vì trên mặt thực tế, không thể có một vụ việc dân sự nào giống nhau hoàn toàn về đường lối xử lý và cả phương pháp giải quyết chúng.
2.2.3 Áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
Trong trường hợp, một vụ việc dân sự mà các bên không có thỏa thuận với nhau về cách thức giải quyết, pháp luật cũng không có quy định chi tiết, không có tập quán và tương tự pháp luật để điều chỉnh quan hệ này thì việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản mà cụ thể là việc áp dụng án lệ, lẽ công bằng được áp dụng và thực thi để giải quyết theo Điều 5,6 Bộ luật Dân sự năm 2015. Trong đó, án lệ phải được Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố. Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó. Như vậy, việc áp dụng lẽ công bằng hoặc án lệ cũng căn cứ và phụ thuộc rất nhiều vào quyết định của Tòa án vì Bộ luật Tố tụng Dân sự chỉ quy định mang tính khái quát, còn để thực thi trên mặt thực tế, áp dụng quy định của pháp luật vào trong thực tiễn khi xảy ra tranh chấp thì Toà án luôn đóng một vai trò quan trọng và vô cùng cần thiết để bảo đảm quyền lợi cho các bên khi tham gia.
III. Kết luận:
Nói tóm lại, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 đã có một bước tiến vượt bậc so với pháp luật tố tụng trước đây khi đã ghi nhận nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết các vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng, giúp đảm bảo quyền lợi của các đương sự khi thực hiện, tham gia các quy trình tố tụng tại Tòa án, bảo vệ quyền lợi hợp pháp và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền xét xử. Nhưng tuy nhiên, nguyên tắc này cũng gây ra một số khó khăn, thử thách cho Pháp luật Việt Nam vì nó chỉ mới mang tính khái quát, chưa thực sự quy định cụ thể trong các quy định của pháp luật về cách giải quyết nên cần nâng cao năng lực của đội ngũ Thẩm phán để bảo đảm Thẩm phán có đủ trình độ, kiến thức, thái độ để có thể đủ mạnh dạn, tự tin giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng, bảo đảm Tòa án thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Từ đó, tạo ra nguồn các bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng có thể được lựa chọn, công bố là án lệ cho việc giải quyết những vụ việc tương tự.
Leave a Reply